Cuộc đột kích bất ngờ của Hamas vào Israel cuối tuần qua lần nữa thổi bùng lửa xung đột ở Gaza,ÔngBidenđigiữalằnranhvớixungđộrakhoitv dải đất chìm trong đói nghèo và bạo lực nhiều thập kỷ.
Tổng thống Joe Biden, người ủng hộ Israel hơn nửa thế kỷ qua, đang đối mặt với câu hỏi hóc búa về chính sách đối ngoại: làm thế nào để hỗ trợ đồng minh thân cận nhất ở Trung Đông mà không kéo Mỹ sa lầy vào cuộc xung đột khu vực nguy hiểm.
Cuộc chiến ở Israel đặt ra cho ông Biden nhiều thách thức đối ngoại, khi Mỹ nỗ lực ngăn các nhóm trong khu vực như Hezbollah ở Lebanon mở thêm mặt trận thứ hai ở phía bắc Israel, đồng thời cân nhắc lựa chọn giải cứu khoảng 130 con tin bị Hamas bắt cóc.
Mỹ đã giảm đáng kể hiện diện quân sự ở Trung Đông sau khi chính quyền ông Biden quyết định rút quân khỏi Afghanistan năm 2021. Điều này báo hiệu kỷ nguyên mới mà ông Biden tuyên bố là rút khỏi "những cuộc chiến vô tận" và tập trung vào ngoại giao cũng như cạnh tranh siêu cường.
Tại Ukraine, ông Biden đã cố gắng cân bằng giữa cung cấp viện trợ quân sự cho Kiev và không kích động cuộc xung đột trực tiếp với Nga. Câu hỏi đặt ra hiện tại là ông có thể đảm bảo hỗ trợ quân sự, an ninh cho Israel mà không để Mỹ dính líu sâu hơn vào cuộc chiến khu vực hay không.
Tổng thống Mỹ đã mạnh mẽ lên án cuộc tấn công của Hamas là "tận cùng tội ác" và nhấn mạnh sự ủng hộ dành cho Israel. "Trong thời điểm này, điều rõ ràng là chúng tôi sát cánh bên Israel", ông nói.
Mối quan hệ đồng minh lâu năm giữa Mỹ và Israel, cùng nỗi phẫn nộ trước hành động của Hamas báo hiệu Mỹ sẽ đóng vai trò quan trọng để hỗ trợ Tel Aviv trong những tuần tới, khi giao tranh ở Dải Gaza dự kiến bùng phát ở quy mô lớn hơn.
Ian Bremmer, chủ tịch công ty tư vấn và nghiên cứu rủi ro chính trị Eurasia Group, cho rằng phản ứng mạnh mẽ của ông Biden với cuộc tấn công của Hamas là hoàn toàn hợp lý.
"Sự ủng hộ này của Mỹ cần diễn ra ngay lập tức và không mang động cơ chính trị vào thời điểm mà mọi thứ đều nhuốm màu sắc chính trị ở Mỹ. Đây là điều không cần bàn cãi", Bremmer nói.
Tổng thống Biden, người đã có ba cuộc điện đàm với Thủ tướng Israel Benjamin Netanyahu kể từ sau cuộc đột kích, đã quyết định tăng hiện diện quân sự Mỹ trong khu vực. Ông ngày 10/10 thông báo điều nhóm tác chiến tàu sân bay thứ hai USS Dwight D. Eisenhower tới khu vực, ngăn nguy cơ Hezbollah tham gia cuộc chiến và Iran leo thang căng thẳng.
Mỹ vốn không có kế hoạch điều USS Dwight D. Eisenhower tới đông Địa Trung Hải, nơi Mỹ đã triển khai nhóm tác chiến tàu sân bay USS Gerald R. Ford để hỗ trợ Israel.
Tàu USS Gerald R. Ford và nhóm chiếm hạm hộ tống tới gần Israel ngày 10/10, theo Lầu Năm Góc. Cố vấn An ninh Quốc gia Jake Sullivan cùng ngày cho biết Mỹ chưa có ý định gửi quân tới Israel.
Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Lloyd Austin đầu tuần này thảo luận với Bộ trưởng Quốc phòng Israel Yoav Gallant, đề nghị hỗ trợ tình báo để giúp Israel để giải quyết cuộc khủng hoảng con tin với Hamas. Ông Austin ngày 10/10 cho biết đã tiếp tục thảo luận chi tiết về đề nghị hỗ trợ này với ông Gallant.
Một quan chức quân sự Mỹ nói rõ Washington không có kế hoạch gửi lực lượng đặc nhiệm vào Dải Gaza để giải cứu con tin, nhưng sẽ cung cấp các hỗ trợ khác cho quân đội Israel.
Natan Sachs, giám đốc Trung tâm Chính sách Trung Đông tại Viện Brookings, nói ông đã dự đoán Tổng thống Biden sẽ tránh gửi quân Mỹ vào khu vực, dù không loại trừ khả năng Mỹ sẽ cung cấp hỗ trợ không quân và hải quân cho Israel nếu Hezbollah tham chiến.
"Đó là bước ngoặt lớn. Nó sẽ thay đổi hoàn toàn cục diện cuộc chiến và khiến mọi thứ thêm phức tạp với ông Biden", Sachs nói.
Khi là phó tổng thống Mỹ, ông Biden đã góp phần thúc đẩy Washington quyết định không kích Syria và Iraq, hỗ trợ lực lượng Iraq trước chiến dịch tấn công của phiến quân Nhà nước Hồi giáo (IS) tự xưng năm 2014. Trước thời điểm đó, Mỹ đã rút phần lớn hiện diện quân sự ở Iraq và tập trung cho chiến lược xoay trục sang châu Á.
Cuộc tấn công của Hamas vào Israel đã tạo thêm thách thức với nỗ lực tái tranh cử của Tổng thống Biden, trong bối cảnh ông đang tìm cách đảm bảo thêm hàng tỷ USD viện trợ cho Ukraine trong cuộc chiến với Nga, khi vấp phản đối ngày càng tăng từ đảng Cộng hòa.
Israel cũng có thể trở thành vấn đề gây chia rẽ trong nội bộ đảng của Tổng thống Biden, khi ngày càng ít thành viên Dân chủ có cùng quan điểm ủng hộ như ông. Cuộc thăm dò do Gallup thực hiện hồi tháng 3 chỉ ra 49% thành viên Dân chủ cảm thông nhiều hơn với người Palestine và 38% cảm thông với người Israel, trái ngược với xu hướng trong các khảo sát trước đó. Kết quả thăm dò cũng chỉ ra 78% người Cộng hòa và 49% cử tri độc lập đồng cảm với Israel.
Giới quan sát nhận định ông Biden duy trì chính sách đối ngoại với Israel dựa trên quan hệ cá nhân. Trong bài phát biểu ở Nhà Trắng ngày 10/10, Tổng thống Biden nói ông từng gặp cựu thủ tướng Israel Golda Meir năm 1973 khi còn là thượng nghị sĩ trẻ và bà nói với ông rằng "vũ khí bí mật" của Israel chính là họ "không còn đường lui".
Mối quan hệ giữa ông Biden và Thủ tướng Netanyahu được hình thành từ những năm 1980, khi ông Netanyahu còn làm việc ở đại sứ quan Israel ở Washington. Dù đôi khi có những mâu thuẫn, sự quen thân đó giữa hai lãnh đạo đã giúp ổn định quan hệ Mỹ - Israel.
Ông Biden năm 2014 nói từng viết vào bức ảnh gửi Netanyahu dòng chữ rằng "Bibi, tôi không đồng ý với điều mà bạn nói, nhưng tôi yêu quý bạn".
Tuy nhiên, mối quan hệ thân thiết này sẽ được thử thách trong thời gian tới, khi Israel đối đầu với cuộc khủng hoảng an ninh lớn nhất trong nhiều thập kỷ.
Thanh Tâm(Theo WSJ)